Hồi hai vợ chồng tôi mới cưới, có một ước mơ lãng mạn – không phải một mái lều tranh, hai trái tim vàng – mà là tiết kiệm, gom góp để mua và để dành mỗi tháng một chỉ vàng.
Vào đầu những năm 2000, giá vàng trong khoảng trên dưới 500.000 đồng mỗi chỉ, tương đương với lương tháng của một cử nhân mới ra trường đi làm. Mức lương này chưa bao gồm phụ cấp và chính sách hỗ trợ của từng cơ quan.
Vì thời gian đã lâu nên tôi không nhớ chính xác, nhưng hồi đó những phóng viên trẻ như tôi ngoài lương cứng hàng tháng còn có nhuận bút, và nếu tháng nào được đăng bài ở các báo lớn thì sống khỏe. Ví dụ nhuận bút phóng sự đăng trên báo Tuổi trẻ TPHCM hồi đó là khoảng 1,5 triệu đồng một bài. Tất nhiên để được đăng bài là cực khó.
Ước mơ lãng mạn của hai vợ chồng tôi đã không thành hiện thực, vì sau đó có nhiều mục tiêu ưu tiên hơn, từ những chuyện nhỏ như bỉm sữa cho con đến chuyện lớn hơn là dành dụm trả góp mua nhà.
Nói đến mua nhà, nếu như giá vàng từ đầu những năm 2000 đến nay tăng khoảng 20 lần, thì giá nhà đất cũng tăng từ 20 -30 lần tùy vị trí. Có những nơi tăng ít hơn, nhưng giá trị tuyệt đối mỗi m2 cao nên mức tăng thực tế rất lớn. Ví dụ, giá đất tại phố Hàng Đào từ mức khoảng 400 triệu đồng/m2 vào năm 1994 (tương đương 8 cây vàng/m2, với giá vàng 5 triệu đồng/lượng), đã tăng lên hơn 1 tỷ đồng/m2 vào năm 2025, tức tăng khoảng 2,5 lần.
Câu nói vui “làm cả đời không bằng tiền lời lô đất” đã trở thành một nhận định khó cãi. Ai cũng thấy là nếu có vốn thì đầu tư vào vàng, vào bất động sản có thể giúp giá trị tài sản tăng lên nhiều lần chỉ sau vài năm. Đây là một thực tế mà lâu nay các chuyên gia đã cảnh báo là khiến cho dòng tiền có xu hướng chảy vào các tài sản có giá trị truyền thông, tài sản đầu cơ, thay vì đưa vào sản xuất kinh doanh.
Nếu có tiền đầu tư vào vàng hay bất động sản thì khá “nhàn thân”, để đó không phải làm gì, sau một thời gian chốt lời. Còn nếu bạn ra khởi nghiệp, dù là mở công ty hay mở một cửa hàng nhỏ trên phố, đều rất vất vả, thậm chí rủi ro.
Mấy năm trước, tình cờ tôi được tham gia “khởi nghiệp” cùng mấy người bạn, đầu tư và vận hành căng tin cơm văn phòng trong một tòa nhà lớn. Vốn không nhiều, các đầu việc theo mô tả cũng đơn giản, nhưng khi vào hoạt động thực tế, tôi mới thấy quả thực không có gì dễ dàng.
Nào là lo chuyện lãi lỗ mỗi ngày, nào là quản lý nhân viên, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, rồi làm sao để xin đủ loại giấy phép, rồi bất ngờ có đoàn kiểm tra ghé qua “hỏi thăm”… Nhớ có những buổi trưa hè, thay vì tranh thủ chợp mắt nghỉ ngơi một chút sau những giờ làm việc căng thẳng, tôi phải tranh thủ chạy qua căng tin, hỗ trợ nhân viên bưng bê kê dọn. Khách hàng có đủ kiểu người, có hôm vui vẻ thoải mái, nhưng cũng có hôm gặp khách khó tính càu nhàu: “Anh ơi, sao cơm hôm nay ít thế?”, “Canh nhạt quá!”, “Thịt cứng như đá vậy!”.
Những va đập giúp tôi hiểu hơn thế nào là “ra đời làm ăn”. Nhưng dù thêm chút vất vả, thật lòng tôi cảm thấy vui và hứng khởi với trải nghiệm của mình.
Thế hệ tôi không nhiều người chọn con đường khởi nghiệp khi rời mái trường phổ thông. Trong đám bạn cấp ba của tôi ngày trước, rất ít người đi con đường trở thành doanh nhân. Đa phần bạn bè tôi đều chọn những công việc ổn định như giáo viên, công chức nhà nước, nhân viên văn phòng ở các công ty lớn.
Khoảng 20 năm trở lại đây, cụm từ “khởi nghiệp” đã trở thành một từ khóa phổ biến. Có hẳn một phong trào khởi nghiệp bùng nổ ở Việt Nam, nhiều người trẻ ôm giấc mộng xây dựng những công ty kỳ lân, những startup triệu đô. Thế nhưng, nhìn vào dữ liệu thực tế thì tinh thần khởi nghiệp ở Việt Nam vẫn khiêm tốn nếu so với những quốc gia ở châu Á như Hàn Quốc, Trung Quốc, hay Singapore.
Đơn cử, tính đến cuối năm 2024, Việt Nam có chưa đến 1 triệu doanh nghiệp đang hoạt động; trung bình số lượng doanh nghiệp thành lập mới hàng năm trong những năm gần đây là hơn 150.000. Trong khi đó, hiện Hàn Quốc có tổng cộng khoảng 7,35 triệu doanh nghiệp đang hoạt động, mỗi năm trung bình có hơn 1 triệu doanh nghiệp mới thành lập. Nghĩa là nếu chỉ tính đơn thuần (nhấn mạnh đây là cách tính làm đơn giản vấn đề) số doanh nghiệp mới thành lập ở Hàn Quốc trong một năm, thì đã nhiều hơn tổng số doanh nghiệp Việt Nam tích lũy được kể từ khi Đổi mới đến nay, gần 40 năm.
Môi trường khởi nghiệp ở Việt Nam đang trở nên thuận lợi hơn bao giờ hết với các chính sách đã, đang và sẽ được ban hành. Chưa bao giờ kinh tế tư nhân có được bệ phóng như hiện nay. Tôi tin là những người – cả trẻ và già – chọn khởi nghiệp làm mục đích của cuộc đời mình sẽ ngày càng nhiều hơn, không chỉ ở số lượng mà cả chất lượng của các dự án cuộc đời. Tất nhiên kết quả như thế nào thì để thời gian trả lời. Ở tầm vĩ mô, làm sao để dòng tiền chủ yếu chảy vào sản xuất kinh doanh thay vì trú ẩn trong các tài sản truyền thống như lâu nay. Bài toán không dễ. Còn ở vi mô, ở mỗi người, khởi nghiệp – tạo ra điều gì đó mới và tốt đẹp – thực sự là một tiếng gọi hấp dẫn.
Đi vào một vùng đất chưa được khám phá, làm công việc có ý nghĩa và đạt được giàu có nhờ tạo ra giá trị cho người khác luôn là điều đáng làm, đáng sống.
Võ Văn Thành

