Nếu sự nghiệp của Roger Fidler có mang một ý nghĩa nào đó, thì chính là: Đôi khi bạn có thể nhìn thấy tương lai đang đến gần, nhưng vẫn bị nó giẫm đạp lên.
Ba mươi năm trước, ông Fidler, một giám đốc điều hành trong ngành truyền thông, đã thúc đẩy một tầm nhìn đầy lạc quan về tương lai của báo chí. Cuộc cách mạng kỹ thuật số, theo ông, sẽ giải phóng tin tức khỏi sự phụ thuộc vào các máy in, mang đến cho con người những thiết bị di động giúp họ cập nhật thông tin suốt cả ngày. Một số câu chuyện sẽ được bổ sung bằng video, một số khác bằng âm thanh và hình ảnh động. Độc giả có thể chia sẻ bài viết, từ đó tăng cường sự gắn kết trong các cộng đồng đa dạng.
Tất cả những điều đó, ít nhiều, đã trở thành hiện thực. Ai cũng trực tuyến mọi lúc, và dường như hầu như ai cũng quan tâm, nếu không muốn nói là bị ám ảnh, bởi các sự kiện quốc gia và quốc tế. Nhưng ngành truyền thông truyền thống mà ông Fidler từng ủng hộ lại không gặt hái được nhiều lợi ích. Sau hàng thập kỷ suy thoái, sự sụp đổ của nó dường như đang diễn ra nhanh chóng hơn.
Ngày nào cũng có những tin xấu. Đôi khi là về các doanh nghiệp kỹ thuật số mới thành lập, đôi khi là về những ấn phẩm lâu đời với lịch sử hơn một thế kỷ.
Các đợt cắt giảm nhân sự vừa được công bố tại Law360, The Intercept và trang video hướng đến giới trẻ NowThis, nơi đã sa thải một nửa nhân viên. Trang tin công nghệ Engadget, nổi tiếng với việc theo dõi toàn diện các vụ sa thải trong ngành công nghệ, cũng đã sa thải các biên tập viên hàng đầu và nhiều nhân viên khác. Condé Nast và Time cũng đang cắt giảm nhân sự. Sự tồn tại của Vice Media, từng được định giá 5,7 tỷ USD, và Sports Illustrated, một thời là ấn phẩm thể thao có ảnh hưởng nhất, giờ đây trở nên bấp bênh. Tờ Los Angeles Times và The Washington Post đã cắt giảm hàng trăm nhà báo. Trong số các tờ báo từng tồn tại năm 2005, cứ bốn tờ thì nay đã mất đi một.
Sự sụp đổ chậm rãi của báo in và tạp chí có lẽ không mấy được quan tâm nếu không vì một lý do quan trọng: Truyền thông truyền thống mang trong mình sứ mệnh cao cả và đầy thách thức là truyền tải thông tin về thế giới. Từ các báo cáo điều tra về chính phủ đến những bài viết về các chính trị gia địa phương, tin tức đã góp phần làm cho các tổ chức và cá nhân được đề cập trở nên minh bạch hơn và, có thể, trung thực hơn.
Các chuyên mục như tư vấn, đánh giá phim, công thức nấu ăn, dữ liệu chứng khoán, dự báo thời tiết và hầu hết mọi nội dung khác trên báo chí đều dễ dàng chuyển sang môi trường trực tuyến — ngoại trừ bản thân tin tức. Việc đưa tin địa phương và khu vực đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tự định vị như một mô hình kinh doanh có lợi nhuận.
Giờ đây, có những dấu hiệu cho thấy toàn bộ khái niệm “tin tức” đang dần mai một. Khi được hỏi nguồn tin tức địa phương của họ đến từ đâu, gần như số người trả lời “mạng xã hội” tương đương với số người nhắc đến báo chí và tạp chí, theo một cuộc khảo sát của Gallup. Một nghiên cứu gần đây tại Pennsylvania đã thử nghiệm việc cung cấp miễn phí các gói đăng ký báo địa phương cho người dân, nhưng hầu như không ai quan tâm.
“Ngay sau khi máy in xuất hiện vào thế kỷ 15, các phòng sao chép bản thảo trong các tu viện đã nhanh chóng đóng cửa,” ông Fidler, hiện 81 tuổi, đang sống nghỉ hưu ở Santa Fe, New Mexico, nhận định. “Tôi không mấy lạc quan về khả năng tồn tại của phần lớn các tờ báo tại Hoa Kỳ.”
Suy thoái và vật lộn
Sự suy thoái của ngành truyền thông song hành với sự chia rẽ ngày càng sâu sắc trong xã hội Mỹ, nơi hiện đang giận dữ và phân cực nhất kể từ thời kỳ đỉnh điểm của chiến tranh Việt Nam và các cuộc biểu tình đòi quyền dân sự hơn nửa thế kỷ trước. Khi truyền thông suy yếu, tiếng ồn lại ngày càng lớn hơn.
Có lẽ mọi chuyện đã có thể khác đi. Trái ngược với quan niệm rằng tất cả các ông trùm báo chí những năm 1980 và 1990 đều nghĩ thời kỳ hoàng kim sẽ kéo dài mãi mãi, không ít người đã nhìn thấy những nguy cơ lờ mờ xuất hiện ở phía xa.
Ông Roger Fidler đã dành 21 năm làm việc tại Knight Ridder, một chuỗi báo sở hữu các nhật báo quan trọng ở các thành phố như Miami và San Jose, California. Một trong những dự án đầu tiên là Viewtron, một nỗ lực đưa các thiết bị đầu cuối vào nhà dân để cung cấp tin tức, dịch vụ mua sắm và trò chuyện. Tuy nhiên, dự án này cung cấp quá ít tiện ích nhưng lại tiêu tốn quá nhiều chi phí. Năm 1986, Viewtron đã bị đóng cửa.
Từ thất bại của Viewtron, ông Fidler rút ra rằng độc giả báo chí cần một thứ trông giống báo giấy và không khiến họ phải tốn kém quá nhiều. Ông đã góp phần phát triển công nghệ cho các thiết bị máy tính bảng nhẹ, sử dụng màn hình phẳng có chi phí thấp nhưng rõ nét, sáng sủa và thời lượng pin tương đối dài.
Những màn hình như vậy chưa tồn tại vào đầu những năm 1990, nhưng người ta dự đoán rằng chúng sẽ xuất hiện vào cuối thập kỷ. Báo chí sẽ được truyền tải thông qua các mạng điện thoại kỹ thuật số tốc độ cao hoặc các hệ thống truyền hình vệ tinh trực tiếp. “Tôi nghĩ đây sẽ là cứu cánh cho các tờ báo truyền thống nghiêm túc,” Thomas Winship, một biên tập viên lâu năm của The Boston Globe, chia sẻ với The New York Times trong một bài viết năm 1992 về ông Roger Fidler.
Dù ít nhất một số nhà xuất bản đã bị thuyết phục, những chiếc máy tính bảng chưa bao giờ trở thành cứu tinh của báo chí. Một vấn đề là không có sự đồng thuận về một tiêu chuẩn phần mềm chung. Máy tính bảng thực sự chỉ trở nên khả thi khi Apple ra mắt iPad vào năm 2010. Tuy nhiên, vấn đề thực sự đối với ngành báo chí là sự xuất hiện của một đối thủ cạnh tranh tàn phá và khó lường: internet.
“Tôi đã tập trung quá hẹp,” ông Roger Fidler thừa nhận.
Internet ban đầu tạo ra một giải pháp thay thế cho báo và tạp chí in, sau đó trở thành đối thủ cạnh tranh, và cuối cùng hủy diệt nhiều trong số đó. “Tôi đã không lường trước tất cả những tác động chéo có thể xảy ra từ các công nghệ mới nổi, dẫn đến sự xuất hiện của Craigslist, các trang tin thay thế, mạng xã hội và những sản phẩm khác làm sụt giảm đáng kể lượng phát hành và doanh thu quảng cáo của báo chí,” ông Fidler thừa nhận.
Tim Berners-Lee tạo ra World Wide Web vào năm 1989 như một công cụ để cộng tác và chia sẻ thông tin. Với tính chất linh hoạt vô tận, nó cho phép cả những người chậm thích nghi và nhanh nhạy cùng tồn tại, tránh được kiểu “dẫn dắt người đọc” mà ông Fidler từng tin là cần thiết. Báo chí gần như ngay lập tức mất đi nguồn quảng cáo rao vặt vào tay internet. Quảng cáo hiển thị cầm cự được một thời gian, nhưng sau đó Google, Facebook và sau này là Amazon đã chiếm lĩnh thị trường đó.
Web, với việc cho phép mọi tiếng nói được lắng nghe ở mức độ như nhau, đã khuyến khích các nhà xuất bản tham gia cuộc chơi. Báo chí và tạp chí bắt đầu cung cấp miễn phí nội dung mà trước đây họ từng thu phí dưới dạng ấn phẩm in. Họ bị thúc ép bởi Thung lũng Silicon, nơi cần những nội dung chất lượng để giữ chân người dùng trực tuyến và tiếp tục sử dụng công nghệ của mình.
“Các nhà xuất bản đã mắc sai lầm khi tin rằng nội dung giống như một loại hàng hóa và nên được cung cấp miễn phí ở mọi nơi,” ông Fidler nói. Phải mất nhiều năm để triển khai các tường phí (paywall), nhưng vào thời điểm đó, nhiều ấn phẩm đã suy yếu đến mức không thể cứu vãn.

Những ngày xưa tốt đẹp cũng chẳng tốt đẹp đến thế
Mặc dù ngành truyền thông đang chìm trong sự bi quan về chính mình, tình hình thực tế lại đầy mâu thuẫn.
Việc đưa tin địa phương đáng tin cậy ở nhiều nơi ngày càng khan hiếm hoặc không còn tồn tại. Nhưng đồng thời, lượng tin tức về quốc tế, quốc gia và văn hóa có sẵn trực tuyến lại phong phú hơn rất nhiều so với những gì các thế hệ trước đây có thể tiếp cận qua báo in. Dù người ta hay ca ngợi những ngày xưa cũ, nếu bạn sống ở một thành phố với một tờ báo chất lượng trung bình — và có rất nhiều nơi như thế — thì việc tiếp cận báo chí chất lượng là điều khó khăn.
“Thực tế, thế giới đã được mở ra trước mắt chúng ta. Có rất nhiều tác phẩm báo chí hay ngoài kia,” David Mindich, giáo sư báo chí tại Trường Truyền thông và Báo chí Klein của Đại học Temple, nhận định. “Nếu bạn nói với tôi cách đây 20 năm rằng: ‘Tôi thấy một thế hệ đang lắng nghe những chương trình âm thanh dài,’ tôi sẽ nói: ‘Khả năng tập trung đang ngắn lại. Tôi không nghĩ điều đó sẽ xảy ra.’ Nhưng nó đã xảy ra.”
Hầu hết các chương trình âm thanh dài, dù hay đến đâu, vẫn không phải là “tin tức” theo cách mà, chẳng hạn, một báo cáo của ủy ban quy hoạch đô thị được xem là tin tức. Sự xói mòn của khái niệm “tin tức” càng được thể hiện rõ hơn trong lĩnh vực tạp chí. Trước đây, mục tiêu là cung cấp thông tin; giờ đây, mục tiêu lại là giải trí.
“Tạp chí Time vừa chọn Taylor Swift là Nhân vật của năm,” Samir Husni, một nhà phân tích tạp chí lâu năm, nhận xét. “Trước đây, họ chưa từng chọn Elvis hay The Beatles. Cô ấy là nghệ sĩ giải trí đầu tiên được vinh danh. Chúng ta đang chuyển từ việc tập trung vào sự thật trong báo chí sang việc tập trung vào tiếp thị trong báo chí, bởi vì chúng ta ngày càng phụ thuộc vào khách hàng trả tiền thay vì nguồn thu từ quảng cáo.”
“Đây là cách kỹ thuật số đã thay đổi báo chí,” ông nói. “Bây giờ mục tiêu là làm mọi người hài lòng. Nhưng đó chưa bao giờ là vai trò của báo chí – làm cho người ta hạnh phúc.”
Marc Benioff, doanh nhân tại Thung lũng Silicon, người đã cùng vợ Lynne mua lại tờ Time đang gặp khó khăn vào năm 2018, có góc nhìn khác về việc chọn Taylor Swift: “Số báo bán chạy nhất mọi thời đại!” (Ít nhất là trong những năm gần đây). Vài tuần sau khi số báo của Swift ra mắt, công đoàn của Time thông báo rằng 15% nhân viên biên tập thuộc công đoàn đã bị sa thải.
Theo ông Benioff, đó là một động thái chiến lược hơn là dấu hiệu khủng hoảng.
“Nếu bạn muốn các doanh nghiệp truyền thông này hoạt động, bạn phải thay đổi danh mục sản phẩm, điều đó cũng có nghĩa là bạn phải thay đổi cơ cấu nhân viên,” ông nhắn tin. Tường phí được áp dụng từ năm 2011 đã bị gỡ bỏ vào năm ngoái. Với tư cách là một thương hiệu, Time cần đạt được mức độ lan tỏa rộng rãi nhất có thể.
Hai năm trước, ông Marc Benioff nói với Axios rằng doanh thu của Time sẽ tăng 30% vào năm 2022, đạt 200 triệu USD. Đó có lẽ là một mục tiêu đầy tham vọng. “Doanh thu năm 2024 dự kiến sẽ đạt 200 triệu USD, một kỷ lục mới,” ông nói hiện tại. “Chúng tôi thậm chí còn có thể kiếm được lợi nhuận.”
Một số ấn phẩm khác đang cố gắng loại bỏ động lực lợi nhuận khỏi báo chí.
Các tổ chức tin tức phi lợi nhuận thường nhỏ, ít được biết đến và phân bố không đồng đều giữa các khu vực. Nhưng cũng có nhiều dấu hiệu cho thấy sự phát triển. Số lượng tổ chức phục vụ cộng đồng người da màu — vốn thường không được phục vụ tốt bởi các ấn phẩm truyền thống — đã tăng gấp đôi trong 5 năm qua, theo Viện Tin tức Phi lợi nhuận.
Độc giả nhìn chung cũng có phản hồi tích cực.
“Mọi người nói về báo chí phi lợi nhuận trong cộng đồng của họ như một phần bình thường của hệ sinh thái tin tức, chứ không phải như một tác nhân bên ngoài,” Magda Konieczna, tác giả cuốn “Journalism Without Profit: Making News When the Market Fails,” cho biết. Ở một số nơi, hiệu quả rất đáng chú ý. “Philadelphia giờ đây là một khu rừng tin tức thay vì một sa mạc tin tức.”
Bà Konieczna giảng dạy tại Đại học Concordia ở Montreal. Cách đây vài tuần, một tập đoàn tin tức lớn của Canada, Bell Media, thông báo cắt giảm hàng trăm việc làm và chấm dứt nhiều chương trình tin tức truyền hình. Thủ tướng Justin Trudeau cho rằng quyết định này đang “xói mòn nền dân chủ của chúng ta.”
“Những người hàng xóm của tôi đọc The New Yorker, nhưng họ không biết tìm tin tức địa phương ở đâu, hoặc tại sao họ cần làm thế, phần lớn bởi vì chúng thực sự không tồn tại,” bà Konieczna nói. “Đây chính là viễn cảnh đen tối của tương lai.”
The New Yorker, trùng hợp thay, từng là nơi làm việc của A.J. Liebling, nhà phê bình báo chí xuất sắc nhất thời kỳ hậu chiến. Ông tự nhận mình là một người lạc quan, mặc dù đã chứng kiến sự suy thoái liên tục từ khi bắt đầu làm phóng viên vào năm 1925.
“Chức năng của báo chí trong xã hội là cung cấp thông tin, nhưng vai trò của nó là kiếm tiền,” ông viết. Ông lập luận rằng, càng tập trung vào mục tiêu sau, báo chí càng ít quan tâm đến mục tiêu trước.
Chưa bao giờ có một “thời kỳ hoàng kim” thực sự, nhưng Roger Fidler vẫn không nguôi nuối tiếc. Từ lâu, ông đã vượt qua thời kỳ của Knight Ridder, công ty được bán cho McClatchy, một chuỗi báo khác, vào năm 2006. McClatchy tuyên bố phá sản vào năm 2020.
Hiện tại, mỗi ngày ông dành vài giờ để đọc tin tức từ phiên bản in của một tờ báo cộng đồng và các phiên bản số của các tờ báo quốc gia và khu vực. Đó là một lượng thông tin lớn, nhưng đối với ông vẫn là chưa đủ.
“Mạng xã hội và những bình luận của nó đã áp đảo chúng ta,” ông nói. “Chúng ta ngập trong biển thông tin vì ai cũng trở thành nhà báo. Ai cũng nghĩ mình có sự thật. Và chắc chắn ai cũng có ý kiến riêng. Thật nản lòng khi thấy mọi thứ đã đi theo hướng này.”
David Streitfeld/Nytimes

